Nghiên cứu khuôn mẫu, xu hướng biến đổi, sự kế thừa và tiếp nhận những giá trị mới, những thách thức và cơ hội về xây dựng giá trị gia đình trong bối cảnh mới đem đến kết quả định vị được một số giá trị cơ bản của gia đình Việt Nam hiện nay, từ đó đưa ra một số khuyến nghị chính sách.
Trong vài thập niên qua, hôn nhân và gia đình Việt Nam đã trải qua những biến chuyển quan trọng, từ kiểu mẫu truyền thống sang kiểu gia đình với những đặc điểm mới, hiện đại và tự do hơn, nhất là từ sau Đổi mới. Chính sách mở cửa hội nhập quốc tế, cùng với nó là hội nhập và giao lưu văn hóa, giá trị cũng góp phần đẩy mạnh những quan điểm cởi mở hơn về hôn nhân và gia đình. Các quá trình kinh tế - xã hội đi cùng với những chính sách kinh tế, văn hóa xã hội của Việt Nam đang tác động lớn đến quan điểm, lối sống và hành vi ứng xử của cá nhân trong xã hội, trong đó có giá trị gia đình của người dân Việt Nam.
CÁC GIÁ TRỊ CƠ BẢN CỦA GIA ĐÌNH VIỆT NAM
Năm 2017-2018, Viện Nghiên cứu Gia đình và Giới thực hiện đề tài: Các giá trị cơ bản của gia đình Việt Nam, với mẫu khảo sát 1.759 cá nhân, tuổi từ 16-70, được chọn theo đại diện các vùng, giới tính, nông thôn, đô thị, dân tộc, tôn giáo, mức sống và tuổi, tại 6 tỉnh, thành phố đại diện cho các vùng miền trên cả nước gồm Yên Bái, Hà Nội, Thừa Thiên - Huế, Đắk Lắk, Thành phố Hồ Chí Minh và Cà Mau. Kết quả cho thấy một số giá trị cơ bản của gia đình Việt Nam hiện nay.
Người dân Việt Nam thuộc mọi tầng lớp xã hội, mọi nhóm nhân khẩu xã hội coi gia đình là ưu tiên hàng đầu trong cuộc sống, sau đó là sức khỏe, việc làm, thu nhập, bạn bè, học vấn, thời gian giải trí, địa vị, tín ngưỡng tôn giáo và chính trị. Cần phải nói thêm rằng, khái niệm gia đình ở đây là mô hình gia đình truyền thống được xây dựng trên cơ sở hôn nhân.
Bất chấp những cảnh báo gần đây về nguy cơ giải thể, tan rã, hôn nhân vẫn là một giá trị quan trọng ở Việt Nam hiện nay. Phần lớn những người được hỏi vẫn khẳng định tầm quan trọng của hôn nhân, theo đó, thanh niên đến tuổi trưởng thành nhất thiết cần lập gia đình. Tỷ lệ người đồng ý với việc sống độc thân thấp hơn nhiều so với số người không đồng ý. Các phân tích cũng cho thấy có sự khác biệt giới trong các quan niệm này. Nữ thanh niên có quan niệm cởi mở, hiện đại hơn về hôn nhân so với nam thanh niên: 16,6% nữ thanh niên dự định sống độc thân so với 10% nam thanh niên; 35,8% nữ thanh niên đồng ý với nhận định “Thanh niên đến tuổi trưởng thành nhất thiết cần lập gia đình” so với 55,6% ở nam thanh niên.
Như vậy, các tiêu chuẩn mang tính cá nhân như tình yêu, vốn nhân lực (học vấn, sức khỏe, nghề nghiệp), phẩm chất cá nhân (tính cách, ngoại hình) được cho là quan trọng. Ngược lại, những giá trị mang tính tập thể như gia đình môn đăng hộ đối, nội hôn (cùng địa phương, dân tộc) không còn được coi trọng như trước.
Phụ nữ không kết hôn nhưng có con (làm mẹ đơn thân) được chấp nhận. Có khoảng một nửa (49,6%) người trả lời chấp nhận hiện tượng làm mẹ đơn thân, thể hiện sự biến đổi trong nhận thức và sự nhân văn trong bảo vệ quyền của phụ nữ.
Mức độ chấp nhận cởi mở dần với một số hiện tượng hôn nhân gia đình mới nhưng nhìn chung vẫn khá truyền thống. Trong khi ở các nước phương Tây sống độc thân là một sự lựa chọn của những người thực sự thích cuộc sống tự do thì ở Việt Nam tình trạng sống độc thân trước kia thường là do hoàn cảnh sống như không tìm được người phù hợp và do hoàn cảnh gia đình như bố mẹ già, neo đơn, kinh tế khó khăn. Kết quả cho thấy mức độ chấp nhận thấp với hiện tượng sống độc thân (38,5%). Nữ giới có tỷ lệ chấp nhận hiện tượng sống độc thân cao hơn so với nam giới 10 điểm phần trăm, 43% so với 33,6% và sự khác biệt này rất có ý nghĩa về mặt thống kê. Thành phần dân tộc có mối quan hệ với thái độ chấp nhận sống độc thân của người trả lời. Người Kinh có xu hướng chấp nhận hiện tượng sống độc thân cao hơn so với người dân tộc thiểu số, 39,2% so với 33,5%.
Gia đình Việt Nam cũng có mức chấp nhận thấp với kết hôn đồng giới (27,7%) nhưng có xu hướng tăng dần ở nhóm trẻ tuổi hơn.
Trong số các giá trị đảm bảo sự bền vững gia đình, giá trị chung thủy được người dân đánh giá cao nhất, sau đó là đến các giá trị tình yêu thương, bình đẳng, có con, chia sẻ việc nhà, hòa hợp tình dục, có thu nhập và sống riêng. Trinh tiết vẫn là giá trị quan trọng đối với đại đa số người trả lời, nhất là với lớp thế hệ lớn tuổi, liên quan đến giá trị đạo đức, trong khi giới trẻ coi quan hệ tình dục là biểu hiện của tình yêu.
Con cái tiếp tục là một giá trị quan trọng trong hôn nhân nhưng người Việt Nam hiện nay không mong muốn có nhiều con, nhất là nhóm mang nhiều đặc điểm hiện đại. Giới tính của con cái khá cân bằng và giảm dần sự ưa thích con trai. Các giá trị của con cái đang chuyển dần từ giá trị xã hội (ưa thích con trai) an sinh (có người chăm sóc khi về già), kinh tế (có nguồn lao động) sang giá trị tâm lý - tình cảm (gắn kết hôn nhân, hoàn thiện bản thân). Đặc điểm này là điều kiện quan trọng để đảm bảo sự bền vững dân số và cần có những chiến lược phù hợp đảm bảo mức sinh đều ở các nhóm xã hội. Đồng thời, nhóm xã hội mong muốn có nhiều con đa số thuộc dân tộc ít người, nông thôn, học vấn thấp, mức sống dưới trung bình, và ngược lại, nhóm mong muốn và thực tế sinh ít con đa số là nhóm mang nhiều đặc điểm hiện đại, đặt ra yêu cầu xác định rõ nhóm đích truyền thông và can thiệp trong triển khai chính sách dân số trong thời gian tới.
MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ CHÍNH SÁCH
Nhà nước cần thực hiện các chính sách kinh tế, xã hội lấy gia đình là trọng tâm và xây dựng gia đình đảm bảo sự gắn kết xã hội và vai trò chăm sóc trong bối cảnh gia đình vẫn là một giá trị được người dân ưu tiên hàng đầu trong cuộc sống và quy mô, cơ cấu, chức năng gia đình đang thay đổi theo hướng hiện đại hóa, cá nhân hóa, hạt nhân hóa. Những chính sách và dịch vụ xã hội đảm bảo sự tiếp cận công bằng, bình đẳng giữa các hình thức gia đình hiện nay như chung sống không kết hôn, gia đình đơn thân, gia đình đồng tính, gia đình có hôn nhân với người nước ngoài, vốn ít có trong xã hội trong truyền thống nhưng bắt đầu xuất hiện trong xã hội chuyển đổi từ nông nghiệp sang công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Tiếp tục đẩy mạnh các chương trình phát triển kinh tế gia đình. Đời sống kinh tế, phúc lợi gia đình Việt Nam trên các khía cạnh nhà ở, tiện nghi, thu nhập, chi tiêu đã tăng khá mạnh mẽ trong thời kỳ mới. Tuy nhiên, bất bình đẳng về phúc lợi gia đình diễn ra giữa các nhóm thu nhập, giữa các vùng, giữa thành thị và nông thôn cũng ngày càng tăng trong khi độ bao phủ và nguồn lực của hệ thống an sinh xã hội, phúc lợi xã hội còn hạn chế, đòi hỏi xây dựng tầm nhìn thúc đẩy kinh tế, khát vọng làm giàu của gia đình để tạo ra hệ thống an sinh xã hội nhiều lớp, tăng khả năng chống chịu rủi ro, đảm bảo không gian an toàn cho gia đình.
Cải thiện hệ thống an sinh xã hội thích ứng với già hóa dân số và biến đổi xã hội. Việc giá trị an sinh của con cái tiếp tục được coi trọng đã khẳng định vai trò quan trọng của gia đình trong việc chăm sóc người cao tuổi cũng như sự hạn chế của hệ thống an sinh xã hội dành cho người cao tuổi. Mặt khác, dưới góc độ văn hóa, giá trị xã hội của con trai có quan hệ chặt chẽ với giá trị an sinh. Điều này phù hợp với truyền thống của gia đình Việt Nam trong đó quy trách nhiệm chăm sóc chính cho cha mẹ lúc về già thuộc về con trai, nên những người mong muốn có con chăm sóc khi về già sẽ là nhóm mong muốn có con trai. Trong cuộc điều tra này, tỷ lệ người cho rằng trách nhiệm chăm sóc chính cho cha mẹ lúc về già là của con trai vẫn chiếm 22,5%, cao gấp nhiều lần so với con gái. Do đó, để cải thiện sự ưa thích con trai, ngoài việc thay đổi nhận thức của người dân về giá trị an sinh xã hội của con cái, cải thiện điều kiện an sinh xã hội cho người dân khi về già cũng có vai trò quan trọng.
Xây dựng nội hàm mới cho mục tiêu xây dựng gia đình trong thời kỳ mới để có thể giáo dục, tuyên truyền, duy trì những giá trị hạnh phúc. Trên thực tế, các giá trị này mang hàm nghĩa rộng mà đời sống xã hội hay trong quan niệm của nhân dân còn có thể có những biểu hiện cụ thể hơn nữa: giá trị của hôn nhân, gia đình, các biểu hiện bền vững của gia đình, giá trị con cái, tình thương yêu, sự hiếu thảo, tính đoàn kết của cộng đồng.
Với những thay đổi mạnh mẽ của đặc điểm gia đình đã nêu trên, trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2021-2030 nên xây dựng nội hàm mới cho mục tiêu xây dựng gia đình. Trong giai đoạn tới, Việt Nam nên cân nhắc chuyển mục tiêu từ: Xây dựng gia đình no ấm, tiến bộ, hạnh phúc thật sự là tế bào lành mạnh của xã hội, sang: Xây dựng gia đình tiến bộ, hạnh phúc, phồn thịnh, là thiết chế quan trọng của các quá trình kinh tế - xã hội và đảm bảo dân số ổn định, chất lượng để tiếp tục khẳng định vai trò quan trọng của gia đình trong phát triển xã hội, và đặt gia đình trong mối quan hệ “động” hơn với các quá trình kinh tế, xã hội chung.