Tìm kiếm tin tức
Chung nhan Tin Nhiem Mang
Liên kết website
Sở, Ban, Ngành
UBND Huyện, Thị xã, Thành phố
Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (03/02/1930 - 03/02/2020), 90 năm Đảng bộ Thừa Thiên Huế xây dựng và trưởng thành (tháng 4/1930 - tháng 4/2020)
Ngày cập nhật 20/01/2020

 

 

 

 

Phần thứ nhất

90 NĂM THÀNH LẬP ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

(03/02/1930 - 03/02/2020)

 

I. ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM RA ĐỜI LÀ BƯỚC NGOẶT TO LỚN TRONG LỊCH SỬ CÁCH MẠNG VIỆT NAM

1. Bối cảnh lịch sử ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam

1.1. Bối cảnh quốc tế

Từ cuối thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang chủ nghĩa đế quốc. Các nước tư bản đế quốc thực hiện chính sách: bên trong tăng cường bóc lột nhân dân lao động, bên ngoài gia tăng các hoạt động xâm lược và áp bức nhân dân các dân tộc thuộc địa. Sự thống trị của chủ nghĩa đế quốc làm đời sống nhân dân lao động trên thế giới trở nên cùng cực. Mâu thuẫn giữa các dân tộc thuộc địa với chủ nghĩa thực dân ngày càng gay gắt. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc diễn ra mạnh mẽ ở các nước thuộc địa.

Năm 1917, với thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga, chủ nghĩa Mác - Lênin từ lý luận đã trở thành hiện thực, mở ra một thời đại mới trong lịch sử loài người; là ánh sáng soi đường cho các dân tộc bị áp bức đứng lên đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người.

Tháng 3/1919, Quốc tế Cộng sản (Quốc tế III) ra đời, đã thúc đẩy sự phát triển mạnh mẽ phong trào cộng sản và công nhân quốc tế. Đối với Việt Nam, Quốc tế Cộng sản có vai trò quan trọng trong việc truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin và thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

1.2. Bối cảnh trong nước

- Năm 1858, thực dân Pháp xâm lược Việt Nam và từng bước thiết lập bộ máy thống trị, biến nước ta từ một quốc gia phong kiến thành “một xứ thuộc địa, dân ta là vong quốc nô, Tổ quốc ta bị giày xéo dưới gót sắt của kẻ thù hung ác”. Chính sách thống trị của thực dân Pháp đã làm cho xã hội Việt Nam có nhiều thay đổi.

Về chính trị, thực dân Pháp thi hành chính sách cai trị thực dân, tước bỏ quyền lực đối nội, đối ngoại của chính quyền phong kiến nhà Nguyễn. Đó là một chính sách chuyên chế điển hình, chúng đàn áp đẫm máu các phong trào và hành động yêu nước của người Việt Nam, mọi quyền tự do bị cấm. Chúng chia rẽ ba nước Đông Dương, chia Việt Nam thành ba kỳ (Bắc Kỳ, Trung Kỳ, Nam Kỳ) và thực hiện ở mỗi kỳ một chế độ cai trị riêng.

Về kinh tế, thực dân Pháp cấu kết với giai cấp địa chủ để thực hiện chính sách bóc lột tàn bạo, cướp đoạt ruộng đất để lập đồn điền; ra sức vơ vét tài nguyên, cùng nhiều hình thức thuế khóa nặng nề, vô lý; xây dựng một số cơ sở công nghiệp,  hệ thống đường giao thông, bến cảng phục vụ chính sách khai thác thuộc địa.

Về văn hóa, thực dân Pháp tiến hành chính sách ngu dân, chúng bưng bít, ngăn cản ảnh hưởng của văn hóa tiến bộ trên thế giới, khuyến khích văn hóa độc hại, xuyên tạc lịch sử, giá trị văn hóa Việt Nam và dung túng, duy trì các hủ tục lạc hậu.

- Sự phân hóa giai cấp và mâu thuẫn xã hội diễn ra ngày càng gay gắt

Phần lớn giai cấp địa chủ cấu kết với thực dân Pháp ra sức bóc lột nông dân; một bộ phận địa chủ có lòng yêu nước, đã tham gia đấu tranh chống Pháp dưới các hình thức và mức độ khác nhau. Các giai cấp, tầng lớp khác trong xã hội Việt Nam đều mang thân phận người dân mất nước và đều bị thực dân áp bức, bóc lột, chèn ép nên đều căm phẫn thực dân Pháp. Do đó, mẫu thuẫn cơ bản trong xã hội Việt Nam lúc này, không chỉ là mâu thuẫn giữa nhân dân, chủ yếu là nông dân với giai cấp địa chủ và phong kiến, mà đã nảy sinh mâu thuẫn ngày càng gay gắt giữa toàn thể nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp xâm lược.

- Các cuộc khởi nghĩa và phong trào đấu tranh của quần chúng chống thực dân Pháp xâm lược diễn ra mạnh mẽ nhưng đều bị thất bại, xã hội Việt Nam rơi vào khủng hoảng về đường lối cách mạng

Trước sự xâm lược của thực dân Pháp, các cuộc khởi nghĩa và các phong trào đấu tranh của nhân dân ta diễn ra liên tục và mạnh mẽ. Tuy nhiên, do thiếu đường lối đúng đắn, thiếu tổ chức và lực lượng cần thiết nên các phong trào đó đã lần lượt thất bại. Phong trào yêu nước theo ý thức hệ phong kiến, như: phong trào Cần Vương đã chấm dứt với sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Hương Khê do Phan Đình Phùng lãnh đạo (1896); phong trào nông dân Yên Thế của Hoàng Hoa Thám kéo dài 30 năm cũng không giành được thắng lợi. Phong trào yêu nước theo khuynh hướng dân chủ tư sản do các cụ Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, Lương Văn Can lãnh đạo cũng rơi vào bế tắc. Cuộc khởi nghĩa Yên Bái do Nguyễn Thái Học lãnh đạo cũng bị thất bại… Cách mạng Việt Nam chìm trong cuộc khủng hoảng sâu sắc về đường lối cứu nước.

2. Nguyễn Ái Quốc tìm đường cứu nước và chuẩn bị thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

- Giữa lúc dân tộc ta đứng trước cuộc khủng hoảng về đường lối cứu nước, nhiều nhà yêu nước đương thời tiếp tục con đường cứu nước theo lối cũ thì ngày 05/6/1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành (tức là Nguyễn Ái Quốc, Hồ Chí Minh sau này) ra đi tìm đường cứu nước theo phương hướng mới. Với khát vọng cháy bỏng giành độc lập, tự do cho dân, cho nước, Nguyễn Tất Thành đã bất chấp mọi nguy hiểm, gian khổ, đi qua nhiều nước của Châu Âu, Châu Phi, Châu Mỹ và đã rút ra chân lý: Chủ nghĩa tư bản, chủ nghĩa đế quốc thực dân là cội nguồn mọi đau khổ của công nhân và nhân dân lao động ở chính quốc cũng như ở các nước thuộc địa.

- Đầu năm 1919, Nguyễn Tất Thành tham gia Đảng Xã hội Pháp. Tháng 6/1919, với tên mới là Nguyễn Ái Quốc, Người thay mặt những người yêu nước Việt Nam gửi đến Hội nghị Véc-xây “Bản yêu sách của nhân dân An Nam” gồm 8 điểm, đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do dân chủ và quyền bình đẳng của dân tộc Việt Nam.

- Tháng 7/1920, Nguyễn Ái Quốc được đọc bản “Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin đăng trên báo Nhân đạo và cũng chính từ đây đã giải đáp cho Người con đường đấu tranh giành độc lập, tự do thực sự cho dân tộc, cho đồng bào mình.

- Từ ngày 25 - 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tham dự Đại hội lần thứ 18 Đảng Xã hội Pháp với tư cách đại biểu Đông Dương. Kết thúc Đại hội ngày 30/12/1920, Nguyễn Ái Quốc tán thành thành lập Đảng Cộng sản Pháp và trở thành một trong những người sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và cũng là người Cộng sản đầu tiên của dân tộc Việt Nam.

- Từ năm 1921 - 1930, Nguyễn Ái Quốc vừa tiếp tục hoạt động trong Đảng Cộng sản Pháp, nghiên cứu bổ sung và hoàn thiện tư tưởng cứu nước, vừa tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Người tập trung chuẩn bị về tổ chức và cán bộ, lập ra Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên (1925), tổ chức nhiều lớp đào tạo cán bộ tại Quảng Châu (Trung Quốc); đồng thời gửi cán bộ đi học tại Trường Đại học Phương Đông (Liên Xô) và Trường Lục quân Hoàng Phố (Trung Quốc).

Nhờ hoạt động không mệt mỏi của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và nhiều đồng chí cách mạng tiền bối mà đến cuối năm 1929, đầu năm 1930, những điều kiện cho sự ra đời của một Đảng vô sản ở Việt Nam đã chín muồi.

 

3. Thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam

- Đáp ứng những đòi hỏi của thực tiễn cách mạng, ngày 17/6/1929, Kỳ Bộ Bắc Kỳ Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã thành lập Đông Dương Cộng sản Đảng tại Hà Nội. Tháng 11/1929, các đồng chí Tổng bộ và Kỳ Bộ Nam Kỳ của Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên quyết định thành lập An Nam Cộng sản Đảng. Ngày 01/01/1930, những đại biểu ưu tú của Tân Việt Cách mạng Đảng (một tổ chức tiền thân của Đảng) đã họp và thành lập Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn ở Trung Kỳ. Tuy nhiên, ở một nước có tới ba tổ chức cộng sản nên không tránh khỏi sự phân tán về lực lượng và tổ chức, không thể thống nhất về tư tưởng và hành động. Trách nhiệm lịch sử là phải thành lập một Đảng Cộng sản duy nhất, chấm dứt tình trạng chia rẽ phong trào cộng sản ở Việt Nam.

- Từ ngày 06/01 - 07/02/1930, Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam đã họp ở bán đảo Cửu Long thuộc Hồng Kông (Trung Quốc) dưới sự chủ trì của đồng chí Nguyễn Ái Quốc thay mặt cho Quốc tế Cộng sản. Trong Hội nghị thành lập Đảng, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đề ra 5 điểm lớn cần thảo luận và thống nhất, trước hết là tự phê bình và phê bình, “Bỏ mọi thành kiến xung đột cũ, thành thật hợp tác để thống nhất các nhóm cộng sản Đông Dương”. Hội nghị đã nhất trí thống nhất các tổ chức cộng sản thành lập một đảng, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua các văn kiện, gồm: “Chánh cương vắn tắt”, “Sách lược vắn tắt”, “Chương trình tóm tắt”, “Điều lệ vắn tắt” của Đảng và “Lời kêu gọi của đồng chí Nguyễn Ái Quốc” thay mặt Quốc tế Cộng sản và Đảng Cộng sản Việt Nam gửi đến công nhân, nông dân, binh lính, thanh niên, học sinh và tất cả đồng bào bị áp bức, bóc lột nhân dịp thành lập Đảng. Trong đó, “Chánh cương vắn tắt” của Đảng và “Sách lược vắn tắt” của Đảng phản ánh nội dung cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản có ý nghĩa như Đại hội thành lập Đảng.

- Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III của Đảng (tháng 9/1960), đã quyết nghị lấy ngày 03 tháng 02 dương lịch mỗi năm làm ngày kỷ niệm thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam.

4. Ý nghĩa lịch sử sự ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam và Cương lĩnh chính trị đầu tiên của Đảng

- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời với Cương lĩnh chính trị đầu tiên đã mở ra thời kì mới cho cách mạng Việt Nam - thời kì đấu tranh giành độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng ra đời, đã xác định được những nội dung cơ bản nhất của con đường cách mạng Việt Nam; đáp ứng được những nhu cầu bức thiết của lịch sử và trở thành ngọn cờ tập hợp, đoàn kết thống nhất các tổ chức cộng sản, các lực lượng cách mạng và toàn thể dân tộc.

- Sự kiện thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam là một bước ngoặt vô cùng quan trọng của lịch sử cách mạng Việt Nam, quyết định sự phát triển của dân tộc, chấm dứt sự khủng hoảng về đường lối và tổ chức lãnh đạo của phong trào yêu nước Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là kết quả của sự vận động, phát triển và thống nhất phong trào cách mạng trong cả nước; sự chuẩn bị công phu về mọi mặt của Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc và sự đoàn kết nhất trí của những chiến sĩ tiên phong vì lợi ích của giai cấp, của dân tộc.

- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời là thành quả của sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam; chứng tỏ giai cấp công nhân Việt Nam đã trưởng thành, đủ sức lãnh đạo cách mạng. 

- Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc Đảng chủ trương cách mạng Việt Nam là một bộ phận của phong trào cách mạng thế giới, đã tranh thủ được sự ủng hộ to lớn của cách mạng thế giới, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại làm nên những thắng lợi vẻ vang; đồng thời đóng góp tích cực vào sự nghiệp đấu tranh vì hòa bình, độc lập dân tộc và tiến bộ của nhân loại trên thế giới.

II. NHỮNG MỐC SON CHÓI LỌI VÀ BÀI HỌC KINH NGHIỆM TRÊN CHẶNG ĐƯỜNG 90 NĂM VINH QUANG CỦA ĐẢNG

1. Đảng lãnh đạo đấu tranh giành chính quyền (1930 - 1945)

Sau khi ra đời, Đảng đã lãnh đạo nhân dân đấu tranh giải phóng dân tộc, giành chính quyền với 3 cao trào cách mạng có ý nghĩa to lớn đưa đến thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945. Đó là:     

- Cao trào cách mạng 1930 - 1931, mà đỉnh cao là phong trào Xô Viết - Nghệ Tĩnh: Làm rung chuyển chế độ thống trị của đế quốc Pháp và tay sai. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quần chúng cách mạng đã vùng dậy trừng trị bọn cường hào, phản động, tay sai thực dân Pháp, thành lập chính quyền cách mạng ở một số nơi theo hình thức Xô Viết. Cao trào cách mạng 1930 - 1931 đã khẳng định đường lối cách mạng Việt Nam do Ðảng đề ra là đúng đắn và để lại những bài học quý báu về xây dựng liên minh công - nông, về xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, về phát động phong trào quần chúng đấu tranh giành và bảo vệ chính quyền.

  - Cao trào cách mạng đòi dân sinh, dân chủ (1936 - 1939): Bằng sức mạnh đoàn kết của quần chúng dưới sự lãnh đạo của Đảng, đã buộc chính quyền thực dân phải nhượng bộ một số yêu sách về dân sinh, dân chủ; quần chúng được giác ngộ về chính trị và trở thành lực lượng chính trị hùng hậu của cách mạng; Đảng đã tích lũy được nhiều bài học kinh nghiệm trong việc xây dựng Mặt trận Dân tộc Thống nhất, kinh nghiệm tổ chức, lãnh đạo quần chúng đấu tranh công khai, hợp pháp...

- Cao trào cách mạng giải phóng dân tộc (1939 - 1945): Dưới sự lãnh đạo sáng suốt, kiên quyết của Đảng, đứng đầu là Lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc cùng với sự đoàn kết hăng hái, chiến đấu ngoan cường và hy sinh to lớn của biết bao đảng viên cộng sản, chiến sĩ và đồng bào yêu nước, đã kết thúc thắng lợi bằng cuộc Cách mạng Tháng Tám năm 1945.

Thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám năm 1945 đã phá tan sự thống trị của thực dân gần một trăm năm và lật đổ chế độ phong kiến đè nặng lên nhân dân ta mấy mươi thế kỉ, mở ra bước ngoặt vĩ đại của cách mạng, đưa dân tộc Việt Nam bước sang kỷ nguyên mới; kỷ nguyên độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, nhân dân ta từ thân phận nô lệ đã trở thành người làm chủ đất nước, làm chủ xã hội. Ngày 02/9/1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc bản “Tuyên ngôn độc lập” khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam - Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Châu Á. Khái quát ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam ta có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức nơi khác cũng có thể tự hào rằng: Lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành công, đã nắm chính quyền toàn quốc”.

2. Đảng lãnh đạo đấu tranh giải phóng dân tộc và thống nhất đất nước (1945 - 1975)

2.1. Xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, toàn quốc kháng chiến chống thực dân Pháp và can thiệp Mỹ (1945 - 1954)

- Trong những năm 1945 - 1946, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh lãnh đạo xây dựng và củng cố vững chắc chính quyền nhân dân, bầu cử Quốc hội nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa (06/01/1946); xây dựng và thông qua Hiến pháp dân chủ đầu tiên (09/11/1946); chăm lo xây dựng chế độ mới, đời sống mới của nhân dân, chống giặc đói, giặc dốt, giặc ngoại xâm; tổ chức kháng chiến chống thực dân Pháp ở Nam Bộ và Nam Trung Bộ với sự ủng hộ và chi viện của cả nước; kiên quyết trấn áp các thế lực phản cách mạng, bảo vệ chính quyền và thành quả Cách mạng Tháng Tám; đồng thời thực hành sách lược khôn khéo, đưa cách mạng vượt qua những thử thách hiểm nghèo. Đảng đã chủ động chuẩn bị những điều kiện cần thiết để đối phó với cuộc chiến tranh xâm lược của thực dân Pháp trên phạm vi cả nước.

  - Tháng 12/1946, trước dã tâm xâm lược nước ta một lần nữa của thực dân Pháp, Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh đã phát động toàn quốc kháng chiến với quyết tâm: “Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. Bằng đường lối kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài, dựa vào sức mình là chính, đồng thời tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè quốc tế, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các kế hoạch chiến tranh của thực dân Pháp, giành thắng lợi mà đỉnh cao là chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, buộc Chính phủ Pháp phải ký kết Hiệp định Giơnevơ chấm dứt sự thống trị của thực dân Pháp ở nước ta.

2.2. Kháng chiến chống Mỹ, cứu nước và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc (1954 - 1975)

- Sau khi Hiệp định Giơnevơ được ký kết, miền Bắc hoàn toàn giải phóng, nhân dân ta bắt tay vào xây dựng, khôi phục kinh tế - văn hóa, xây dựng chủ nghĩa xã hội. Trong khi đó ở miền Nam, đế quốc Mỹ phá hoại Hiệp định Giơnevơ, hất chân thực dân Pháp, biến miền Nam thành thuộc địa kiểu mới và căn cứ quân sự của chúng. Nhiệm vụ của Đảng ta trong giai đoạn này hết sức nặng nề, đó là phải lãnh đạo cách mạng Việt Nam tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược gồm: cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam và cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.

  - Đảng ta đã lãnh đạo toàn dân nêu cao quyết tâm đánh Mỹ, thực hiện đường lối chiến tranh nhân dân bằng tầm cao khoa học và nghệ thuật. Với một đế quốc hùng mạnh bậc nhất thế giới, Đảng ta chủ trương đánh lâu dài; kết hợp đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang và hoạt động binh vận; kết hợp tiến công và nổi dậy, tiến hành đấu tranh trên cả ba vùng (đồng bằng, thành thị và miền núi); kết hợp mặt trận quân sự, chính trị với mặt trận ngoại giao; phát huy cao độ chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng; phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc và sức mạnh thời đại. Bằng đường lối lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt và tinh thần đấu tranh anh dũng kiên cường, bất khuất, bất chấp mọi gian khổ hy sinh của nhân dân ta, cùng với sự giúp đỡ to lớn của các nước xã hội chủ nghĩa và nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới, Đảng đã lãnh đạo nhân dân ta lần lượt đánh bại các chiến lược chiến tranh tàn bạo của đế quốc Mỹ, giành nhiều thắng lợi vẻ vang mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, kết thúc 30 năm chiến tranh giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc. Đây là một trong những trang chói lọi nhất của lịch sử dân tộc, là một sự kiện có tầm quốc tế và có tính thời đại sâu sắc.

- Song song với cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, Đảng đã lãnh đạo nhân dân miền Bắc khắc phục hậu quả chiến tranh, khôi phục kinh tế - xã hội, tiến hành cải tạo xã hội chủ nghĩa và đưa miền Bắc quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Sau 21 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội, miền Bắc đã giành được những thành tựu quan trọng, chuẩn bị cơ sở vật chất, kỹ thuật ban đầu cho chủ nghĩa xã hội; vừa sản xuất, vừa chiến đấu và chi viện sức người, sức của, hoàn thành vai trò hậu phương lớn đối với tiền tuyến lớn miền Nam.

3. Thời kỳ tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa trên cả nước, thực hiện công cuộc đổi mới đất nước từ năm 1975 đến nay

3.1. Từ năm 1975 đến năm 1986

- Sau chiến tranh giải phóng miền Nam, thống nhất Tổ quốc, đất nước ta gặp muôn vàn khó khăn, Đảng đã lãnh đạo nhân dân vừa ra sức khôi phục kinh tế vừa tiến hành hai cuộc chiến tranh chống xâm lược biên giới phía Bắc và Tây Nam, bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; đồng thời tập trung lãnh đạo xây dựng cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội, từng bước hình thành cơ cấu kinh tế mới trong cả nước, cải thiện đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân lao động. Tuy nhiên, việc duy trì lâu dài mô hình, cơ chế kinh tế tập trung bao cấp không còn phù hợp và đã bộc lộ những hạn chế, nhược điểm; việc hoạch định và thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa có lúc, có nơi đã mắc sai lầm khuyết điểm chủ quan, duy ý chí. Đó cũng là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng kinh tế - xã hội trong những năm đầu cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.

- Trước những thách thức của thời kỳ mới, Đảng ta đã tổng kết thực tiễn, tìm tòi, hoạch định đường lối đổi mới, ban hành Nghị quyết số 21-NQ/TW, ngày 20/9/1979 của Hội nghị Trung ương 6 (khóa IV) về “Phương hướng nhiệm vụ phát triển công nghiệp hàng tiêu dùng và công nghiệp địa phương”; Chỉ thị số 100-CT/TW, ngày 13/01/1981 của Ban Bí thư về “Cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán sản phẩm đến nhóm lao động và người lao động trong hợp tác xã nông nghiệp”; Quyết định số 25/QĐ-CP, ngày 21/01/1981 của Chính phủ về “Đổi mới quản lý kinh tế quốc doanh”; Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8, khóa V (tháng 6/1985) thừa nhận sản xuất hàng hóa và những quy luật của sản xuất hàng hóa; Kết luận của Bộ Chính trị (tháng 8/1986) về 3 quan điểm kinh tế trong tình hình mới...

3.2. Từ năm 1986 đến nay

- Trên cơ sở đánh giá tình hình đất nước và qua quá trình tìm tòi, khảo nghiệm, Đại hội VI của Đảng (tháng 12/1986) đã đưa ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, mở ra bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

- Trước bối cảnh mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới tạm thời lâm vào thoái trào, Đại hội VII của Đảng (tháng 6/1991) khẳng định tiếp tục đổi mới đồng bộ, triệt để trên các lĩnh vực với những bước đi, cách làm phù hợp và giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa. Đại hội đã thông qua “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, xác định những quan điểm và phương hướng phát triển đất nước, khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.

- Các nghị quyết của Đảng từ Đại hội VIII đến nay, tiếp tục khẳng định sự kiên định, kiên trì thực hiện đường lối đổi mới đất nước và hội nhập quốc tế. Hệ thống quan điểm lý luận về công cuộc đổi mới, về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, về xây dựng và chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới không ngừng được bổ sung và phát triển. Ðảng Cộng sản Việt Nam từng bước hoàn thiện và cụ thể hóa toàn diện các định hướng đổi mới, phát triển, xác định rõ trọng tâm trong từng giai đoạn. Ban Chấp hành Trung ương Ðảng các khóa đã ban hành nhiều nghị quyết về những vấn đề quan trọng; lãnh đạo để Quốc hội không ngừng bổ sung, hoàn thiện, thể chế hóa Hiến pháp, hệ thống pháp luật, tạo cơ sở pháp lý ngày càng đồng bộ, phù hợp cho quá trình đổi mới; lãnh đạo Chính phủ cụ thể hóa thành các cơ chế, chính sách và giải pháp quản lý, quản trị phát triển đất nước, bảo vệ Tổ quốc.

- Qua gần 30 năm thực hiện Cương lĩnh 1991 và 35 năm thực hiện đường lối đổi mới do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, với sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, đất nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử. Đất nước ta vượt qua khủng hoảng kinh tế đã trở thành nước đang phát triển có thu nhập trung bình; đang đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế. Kinh tế tăng trưởng khá, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từng bước hình thành, phát triển. Văn hóa - xã hội có bước phát triển, công tác xóa đói giảm nghèo đạt được những thành tựu quan trọng, sớm đạt được nhiều chỉ tiêu phát triển thiên niên kỷ của Liên Hhợp quốc, được quốc tế đánh giá cao. Diện mạo đất nước và đời sống của nhân dân có nhiều thay đổi. Chính trị - xã hội ổn định; quốc phòng - an ninh được tăng cường. Sức mạnh về mọi mặt của đất nước được nâng lên. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều sâu, Việt Nam đã có quan hệ với 189 quốc gia và vùng lãnh thổ. Dân chủ xã hội chủ nghĩa được phát huy và ngày càng mở rộng. Ðại đoàn kết toàn dân tộc được củng cố và tăng cường. Xây dựng Nhà nước pháp quyền và cả hệ thống chính trị được đẩy mạnh. Công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh đã và đang đạt được một số kết quả tích cực. Số lượng đảng viên không ngừng gia tăng. Từ Đại hội lần thứ I (1935) Đảng ta có khoảng 500 đảng viên, đến Đại hội lần thứ XII (2016) Đảng ta có hơn 4,5 triệu đảng viên. Đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi, tin tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của đất nước. Nhiều đảng viên đã để lại nhiều tấm gương tốt, thể hiện tinh thần tiên phong và tính gương mẫu.

- Những thành tựu qua gần 35 năm thực hiện đường lối đổi mới đất nước đã tạo đà cho sự phát triển trong những năm tiếp theo; đồng thời cũng là minh chứng sinh động khẳng định vai trò lãnh đạo đúng đắn, sáng suốt của Đảng ta.

 

Phần thứ hai

ĐẢNG BỘ THỪA THIÊN HUẾ

90 NĂM XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH

I. ĐẢNG BỘ THỪA THIÊN HUẾ - 90 NĂM XÂY DỰNG VÀ TRƯỞNG THÀNH

1. Đảng bộ Thừa Thiên Huế ra đời và lãnh đạo các phong trào cách mạng giai đoạn 1930 - 1945

- Là một bộ phận của Đảng Cộng sản Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, Đảng bộ Thừa Thiên Huế là một trong những đảng bộ ra đời sớm vào đầu tháng 4/1930 trên cơ sở hợp nhất hai tổ chức cộng sản ở Thừa Thiên Huế là Đông Dương Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên đoàn, đã trải qua 90 năm (1930 - 2020) lãnh đạo nhân dân vượt qua muôn trùng thử thách của các chặng đường lịch sử, góp phần vào lịch sử đấu tranh oanh liệt, thắng lợi vẻ vang của Đảng và của dân tộc.

- Sự ra đời của tổ chức Đảng Cộng sản ở trung tâm chính trị phong kiến của cả nước, thủ phủ chế độ thực dân ở Trung Kỳ có ý nghĩa quan trọng, không chỉ đối với Thừa Thiên Huế, mà còn có tầm quan trọng đối với cả nước. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân tham gia tích cực các phong trào cách mạng rộng lớn, tiêu biểu là phong trào 1930 - 1931, phong trào Mặt trận dân chủ 1936 - 1939 sôi nổi, mạnh mẽ đúng đường lối đấu tranh giai cấp của Đảng.

- Vượt qua làn sóng khủng bố của kẻ thù, Đảng bộ tiếp tục lãnh đạo nhân dân dấy lên cao trào kháng Nhật cứu nước. Khi nhận được Chỉ thị “Nhật - Pháp bắn nhau và hành động của chúng ta” sau sự kiện Nhật đảo chính Pháp (09/3/1945), Tỉnh ủy đã khẩn trương chuẩn bị đón thời cơ khởi nghĩa giành chính quyền. Hội nghị lịch sử tại đầm Cầu Hai (23/5/1945) đã vạch ra những nguyên tắc, sách lược, tổ chức và thời gian khởi nghĩa ở Huế và các huyện trong tỉnh. Chính sự chỉ đạo chặt chẽ, chuẩn bị kỹ lưỡng và toàn diện về mọi mặt đã dẫn đến thắng lợi rực rỡ trong cuộc khởi nghĩa giành chính quyền Tháng Tám năm 1945 ở Thừa Thiên Huế, đánh dấu bước trưởng thành quan trọng của Đảng bộ trong cuộc cách mạng ngay giữa trung tâm của chế độ thực dân - phong kiến, góp phần to lớn quyết định thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội ở nước ta.

Đây là một trong những sự kiện trọng đại trong lịch sử đấu tranh cách mạng của Đảng bộ và nhân dân Thừa Thiên Huế, là thắng lợi của lòng tin vào lý tưởng cộng sản; thắng lợi của lòng yêu nước đã biến thành hành động cách mạng với sức mạnh to lớn của quần chúng nhân dân, thắng lợi của khối đại đoàn kết dân tộc đã phân hóa hàng ngũ và thế lực của kẻ thù; thắng lợi của ý chí kiên cường, tinh thần dũng cảm, trí thông minh sáng tạo và quyết tâm của Đảng bộ, nhân dân Thừa Thiên Huế thực hiện lời dạy của Bác Hồ “Đem sức ta mà giải phóng cho ta”. Điều đó càng chứng minh rằng, Đảng của giai cấp công nhân được trang bị chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam, là nhân tố cơ bản quyết định mọi thắng lợi của cách mạng cả nước cũng như ở mỗi địa phương.

2. Không ngừng trưởng thành và lớn mạnh, Đảng bộ Thừa Thiên Huế tiếp tục lãnh đạo nhân dân tham gia hai cuộc kháng chiến chống ngoại xâm giành thắng lợi vẻ vang

a. Giai đoạn 1945 - 1954

- Sau Cách mạng Tháng Tám, giữa bộn bề khó khăn chồng chất, ngày đêm phải đối phó với thù trong giặc ngoài, Đảng bộ vẫn gan vững, chí bền giữ vững nguyên tắc độc lập dân tộc, tinh thần tự lực, tự cường, ứng xử khôn khéo “Dĩ bất biến ứng vạn biến” với các thế lực thù trong giặc ngoài, lãnh đạo nhân dân xây dựng và bảo vệ chính quyền cách mạng, diệt “Giặc đói”, “Giặc dốt”, giặc ngoại xâm, vượt qua những khó khăn khắc nghiệt của thế “Ngàn cân treo sợi tóc”.

- Ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc bùng nổ, đáp lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, cùng đồng bào cả nước, Đảng bộ đã lãnh đạo quân và dân Thừa Thiên Huế anh dũng đứng lên kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược. Với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”, quân và dân ta đã vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, thử thách ở chiến trường địch hậu, tiến hành kháng chiến “Toàn dân, toàn diện” theo đường lối chiến tranh nhân dân của Đảng.

- Mặc dù phải đương đầu với cuộc chiến đấu không cân sức, trong vòng vây của kẻ thù, nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, quân và dân ta đã kiên trì bám đất, bám dân trường kỳ kháng chiến. Giữa những ngày ác liệt đó, nhận định sắc sảo và tầm nhìn chiến lược “Mất đất chưa phải mất nước, chết không rời cơ sở, chúng ta phải tranh thủ từng thôn, từng người dân. Còn Đảng, còn dân là còn tất cả. Chúng ta nhất định thắng” của đồng chí Bí thư Tỉnh ủy Nguyễn Chí Thanh, đã trở thành quyết tâm và hành động của toàn Đảng bộ, tạo nên sức mạnh để quân dân Thừa Thiên Huế vượt qua những thử thách khắc nghiệt của cuộc kháng chiến.

- Sau hội nghị Nam Dương lịch sử (tháng 3/1947), chúng ta đã chủ động tấn công địch bằng một số trận đánh thắng lợi, gây được tiếng vang, như: trận Hộ Thành, Đất Đỏ, Võ Xá, Sư Lỗ..., nối lại tiếng súng kháng chiến, thắp sáng niềm tin cho cán bộ, chiến sĩ và nhân dân. Để chuẩn bị cho cuộc kháng chiến lâu dài, Tỉnh ủy đã chủ trương xây dựng các chiến khu Hòa Mỹ, Dương Hòa và phát triển căn cứ kháng chiến ở đồng bằng Phong - Quảng, Phú Vang, Phú Lộc. Đội ngũ đảng viên không ngừng lớn mạnh ở các địa phương và trong lực lượng vũ trang, đã phát huy vai trò tiên phong gương mẫu trên các mặt trận, xứng đáng với niềm tin của nhân dân. Lực lượng vũ trang của tỉnh hình thành với 3 thế quân đã anh dũng lập công trong các trận chống càn, bảo vệ nhân dân, bảo vệ căn cứ kháng chiến. Nổi bật là các chiến thắng vang dội, như: Hòa Mỹ, Dương Hòa, Thanh Lam Bồ, Mỹ Lợi, Thanh Hương Mỹ Xuyên, Phổ Lại, Phò Trạch, An Lỗ, An Hòa, Văn Thánh, An Cựu. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, thế trận lòng dân ngày càng được tăng cường, củng cố. Mặt trận Việt Minh - Liên Việt và các đoàn thể cứu quốc tập hợp được đông đảo các tầng lớp nhân dân hướng về cách mạng, đóng góp sức người, sức của cho kháng chiến.

- Suốt 9 năm kháng chiến chống thực dân Pháp, quân và dân Thừa Thiên Huế đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ chiến đấu ở vùng sau lưng địch, làm tròn nghĩa vụ quốc tế với nước bạn Lào và Camphuchia, phối hợp chia lửa với chiến trường Tây Bắc, góp phần vào thắng lợi của chiến dịch Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, kết thúc thắng lợi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.

Với những thành tích to lớn ấy, quân và dân Thừa Thiên Huế đã vinh dự được nhận cờ luân lưu “Quyết chiến quyết thắng” của Chủ tịch Hồ Chí Minh trao tặng. Đây là phần thưởng xứng đáng cổ vũ Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà viết tiếp trang sử vàng kháng chiến chống Mỹ, cứu nước.

b. Giai đoạn 1954 - 1975

- Năm 1954, Hiệp định Giơ-ne-vơ được ký kết, đất nước tạm thời chia làm hai miền. Đế quốc Mỹ nhảy vào miền Nam lập nên chính quyền tay sai Ngô Đình Diệm, gây ra cuộc chiến tranh đẫm máu kéo dài suốt 21 năm.

- Dưới sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng, đáp lời kêu gọi thiêng liêng của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Không có gì quý hơn độc lập tự do”, Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên Huế đã đoàn kết, nhất tề đứng lên vượt qua muôn trùng khó khăn, thử thách, không quản ngại gian khổ, mất mát, hy sinh, anh dũng chiến đấu ngoan cường. Với quyết tâm “Đảng bám dân, dân bám đất, một tấc không đi, một ly không rời”, phát động cuộc chiến tranh nhân dân giành thắng lợi từng bước theo phương châm “Hai chân, ba mũi trên ba vùng chiến lược”, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân kết hợp chặt chẽ giữa đấu tranh chính trị và đấu tranh vũ trang, phát triển cơ sở cách mạng ở nông thôn, đồng bằng và đô thị; xây dựng căn cứ địa cách mạng ở miền núi, xây dựng lực lượng vũ trang và hậu cần tại chỗ. Những năm tháng khó khăn, gian khổ ngày đêm đối mặt với lưỡi lê, máy chém của Luật 10/59 do tập đoàn tay sai Ngô Đình Diệm tiến hành mà đại diện là Ngô Đình Cẩn - tên hung thần bạo chúa ở miền Trung, Đảng bộ đã lãnh đạo nhân dân kiên trì đấu tranh, vượt qua thời kỳ “Tố Cộng, diệt Cộng” đẫm máu của kẻ thù, từng bước khôi phục, gây dựng phong trào, chờ thời cơ chín muồi vùng lên tiêu diệt kẻ thù.

- Dưới ánh sáng của Nghị quyết Trung ương lần thứ 15 (khóa II), Đảng bộ đã nhanh chóng phát động nhân dân tiến hành Đồng Khởi thắng lợi ở miền núi (1960), Đồng Khởi đồng bằng (1964), giành quyền làm chủ, kết hợp với phong trào đấu tranh chính trị ở thành thị và nông thôn, đưa cuộc chiến tranh nhân dân ngày càng phát triển, góp phần từng bước đánh bại các chiến lược “Chiến tranh đặc biệt”, “Chiến tranh cục bộ”“Việt Nam hóa chiến tranh” của Mỹ - ngụy. Điển hình là cuộc Tổng tiến công và nổi dậy xuân Mậu Thân - 1968, quân và dân ta đã làm chủ thành phố Huế suốt 26 ngày đêm, làm cho địch kinh hoàng run sợ, báo hiệu sự sụp đổ không thể tránh khỏi của quân xâm lược và bè lũ tay sai. Chiến thắng đó đã góp phần đánh bại “Chiến tranh cục bộ” của Mỹ, buộc chúng phải xuống thang ngồi vào bàn đàm phán. Thừa Thiên Huế là một trong ba ngọn cờ đầu của chiến tranh nhân dân ở miền Nam chống Mỹ, vinh dự được Bác Hồ gửi thư khen ngợi và được trao tặng danh hiệu “Tiến công, nổi dậy, anh dũng, kiên cường”.

- Tháng 10/1974, Bộ Chính trị đã họp đánh giá tình hình miền Nam và ra Nghị quyết lịch sử “Quyết tâm chiến lược giải phóng miền Nam trong hai năm 1975 - 1976”. Tỉnh ủy đã kịp thời đề ra nhiệm vụ cho quân và dân Thừa Thiên Huế trong năm 1975 là: “Tiến hành công kích và khởi nghĩa, kiên quyết và táo bạo chuyển phong trào lên một bước nhảy vọt giành thắng lợi to lớn”. Phối hợp với các lực lượng và các mũi tiến công địch trên toàn chiến trường, chỉ trong 22 ngày đêm (từ 05/3 đến 26/3), quân và dân Thừa Thiên Huế đã cùng lực lượng Quân khu Trị Thiên, Quân đoàn II, tiến công từ bên ngoài, nổi dậy từ bên trong, tạo thành hai mũi giáp công tiêu diệt địch giành quyền làm chủ. Ngày 26/3/1975, lá cờ cách mạng tung bay trên bầu trời Cố đô Huế, đánh mốc son lịch sử Thừa Thiên Huế hoàn toàn giải phóng.

Đây là thắng lợi lớn nhất, rực rỡ nhất của quân và dân tỉnh nhà trong suốt 21 năm kháng chiến chống Mỹ, cứu nước. Với thắng lợi oanh liệt đó, quân và dân Thừa Thiên Huế đã góp phần quan trọng làm nên Đại thắng mùa Xuân 1975, kết thúc quá trình 30 năm giải phóng dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc, cùng cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội.

3. 45 năm lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và bảo vệ quê hương, thực hiện công cuộc đổi mới

- Sau ngày quê hương giải phóng, đứng trước muôn vàn khó khăn, phức tạp, Đảng bộ Thừa Thiên Huế đã cùng với quân, dân trong tỉnh tập trung xây dựng, củng cố và bảo vệ chính quyền cách mạng; chăm lo nơi ăn chốn ở, ổn định đời sống nhân dân; khắc phục hàn gắn vết thương chiến tranh và cải tạo từng bước làm lành mạnh xã hội. Những cố gắng phấn đấu không mệt mỏi của Đảng bộ và nhân dân Thừa Thiên Huế đạt được sau ngày quê hương giải phóng có ý nghĩa quan trọng và đáng tự hào, góp phần khẳng định niềm tin của nhân dân đối với chế độ mới, được Trung ương đánh giá: “Thừa Thiên Huế là một tỉnh gặp khó khăn nhất, nhưng cùng là địa phương sớm ổn định tình hình, nhanh chóng khắc phục hậu quả chiến tranh”.

- 13 năm hợp nhất trong tỉnh Bình Trị Thiên, với tinh thần “Vì cả nước, với cả nước”, Đảng bộ các huyện và thành phố Huế đã tập trung khôi phục, phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn, xung kích trong việc xây dựng mô hình kinh tế trọng điểm của tỉnh Bình Trị Thiên, vừa cải tạo quan hệ sản xuất cũ, xây dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa, rà phá bom mìn, khai hoang phục hóa, thủy lợi hóa, tìm bước đi thích hợp, vượt qua khó khăn của thời gian dài thời kỳ bao cấp, gắn nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội với tăng cường củng cố hệ thống chính trị, quốc phòng - an ninh trong hoàn cảnh đất nước vừa có hòa bình vừa có chiến tranh, làm tròn nhiệm vụ đối với cả nước và quốc tế.

- Dưới ánh sáng của Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI và đường lối đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo, từ sau khi phân chia lại tỉnh Thừa Thiên Huế năm 1989, Đảng bộ tỉnh đã trải qua 6 kỳ đại hội (từ đại hội lần thứ X đến XV). Từ quá trình tìm tòi một cơ cấu kinh tế thích hợp: công nghiệp - du lịch, dịch vụ - nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa, tập trung lãnh đạo chuyển dịch cơ cấu kinh tế, xác định rõ các ngành trọng điểm, các vùng kinh tế, các khu công nghiệp, đề ra 4 mũi nhọn kinh tế, các chương trình kinh tế - xã hội trọng điểm, các mục tiêu, chỉ tiêu phấn đấu để thực hiện từ Đại hội X (1991) đến Đại hội XI (1996). Đến nay, Thừa Thiên Huế đã có những bước tiến vượt bậc đáng tự hào trên tất cả các lĩnh vực:

Phát huy truyền thống vẻ vang của một Đảng bộ kiên cường, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ tỉnh ngày càng được nâng cao, đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của thời kỳ phát triển mới. Đảng bộ thực sự đoàn kết, ngày càng trong sạch, vững mạnh. Thực hiện các nghị quyết Trung ương 4 khóa XI và khóa XII về xây dựng và chỉnh đốn Đảng, gắn với học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, Đảng bộ tỉnh đã quan tâm tăng cường giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, góp phần nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và nhân dân trên địa bàn tỉnh về vai trò, tầm quan trọng của sự lãnh đạo của Đảng; từ đó nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đảng viên; ngăn chặn những biểu hiện suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống của một bộ phận cán bộ, đảng viên. Kỷ cương, kỷ luật hành chính được tăng cường. Đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp đã chú trọng nâng cao tinh thần trách nhiệm, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo thực tiễn, đổi mới lề lối làm việc; nghiêm khắc tự sửa chữa khuyết điểm trong công tác, trong cuộc sống của mình; hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị đề ra.

Công tác xây dựng Đảng về chính trị và tư tưởng được tăng cường; gắn với đổi mới, nâng cao chất lượng công tác giáo dục chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa yêu nước và truyền thống cách mạng. Công tác tổng kết thực tiễn, nghiên cứu lý luận được đẩy mạnh. Công tác tổ chức, cán bộ được triển khai đồng bộ. Nhiều chủ trương, quan điểm, giải pháp lớn về công tác cán bộ đã được cụ thể hóa thành quy định, kế hoạch để thực hiện. Thực hiện tốt phân công, phân cấp quản lý cán bộ; dân chủ, công khai, minh bạch trong công tác đánh giá, quy hoạch, đào tạo, bổ nhiệm, luân chuyển và chính sách cán bộ; quan tâm cán bộ trẻ, cán bộ nữ, cán bộ người dân tộc thiểu số. Tập trung chăm lo, củng cố, kiện toàn các cấp ủy, tổ chức cơ sở đảng. Việc đánh giá chất lượng tổ chức cơ sở đảng, đảng viên từng bước đi vào thực chất. Công tác bảo vệ chính trị nội bộ được tăng cường, đáp ứng kịp thời các yêu cầu xây dựng Đảng.

Công tác kiểm tra, giám sát của Đảng được tiến hành kịp thời, bảo đảm quy trình, quy định và giữ nghiêm kỷ luật, kỷ cương của Đảng, giúp cấp ủy đánh giá đúng tình hình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị, làm rõ trách nhiệm của tập thể và cá nhân cấp ủy viên, cán bộ chủ chốt, nhất là những nơi có vấn đề phức tạp. Công tác tuyên truyền nâng cao nhận thức về phòng, chống tham nhũng, lãng phí đối với cán bộ, đảng viên và nhân dân có chuyển biến tích cực. Thực hiện có hiệu quả các giải pháp phòng ngừa tham nhũng. Công tác tiếp công dân, giải quyết đơn, thư khiếu nại, tố cáo thực hiện đúng quy trình, quy định, thủ tục của pháp luật; từng bước giải quyết những vấn đề bức xúc, vướng mắc, tồn đọng kéo dài.

Các cấp ủy đảng đã tăng cường kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ của các tổ chức đảng, lắng nghe và nắm bắt tâm tư, nguyện vọng, ý kiến đề xuất chính đáng của cán bộ, đảng viên và nhân dân; đổi mới cách ra nghị quyết, chỉ thị theo hướng ngắn gọn, thiết thực, cụ thể, rõ việc, rõ trách nhiệm. Dân chủ cơ sở từng bước được đề cao. Mặt trận và các tổ chức chính trị - xã hội đã nêu cao trách nhiệm phục vụ nhân dân; phong cách “Trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân” của cán bộ, công chức có nhiều chuyển biến.

Đảng bộ và nhân dân toàn tỉnh đã nỗ lực vượt qua khó khăn, thử thách, đưa Thừa Thiên Huế ra khỏi tỉnh nghèo, kém phát triển; cơ cấu kinh tế chuyển dịch tích cực, trở thành một cực phát triển năng động của vùng kinh tế trọng điểm miền Trung. Tổng quan bức tranh kinh tế - xã hội ngày càng rõ nét, diện mạo kinh tế - xã hội của tỉnh đã có những thay đổi to lớn. GDP tăng bình quân hàng năm là 8,45%, vượt 2,45% so với mức đề ra cho thời kỳ 1991 - 1995, tăng 6,35% so với thời kỳ 1986 - 1990. Giai đoạn 2010 - 2015, trong bối cảnh rất nhiều khó khăn, thách thức, nhưng đã duy trì tăng trưởng ở mức hợp lý, bình quân đạt trên 9%/năm. So với năm 2010, quy mô nền kinh tế tăng gấp 1,6 lần; thu nhập bình quân đầu người đạt 2.000 USD, tăng gần 2 lần. Tổng vốn đầu tư toàn xã hội đạt gần 70.000 tỷ đồng. Giai đoạn 2016 - 2018, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân ước đạt 7,3%/năm, cao hơn mức bình quân chung của thời kỳ 2011 - 2015 là 6,12%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực và phù hợp với định hướng phát triển của tỉnh trên cơ sở các lợi thế so sánh của tỉnh về phát triển du lịch, dịch vụ, y tế, giáo dục… Huy động các nguồn lực tập trung đầu tư kết cấu hạ tầng kỹ thuật, chỉnh trang, nâng cấp đô thị Thừa Thiên Huế đạt 78,84/100 điểm theo Nghị định 42/2009/NĐ-CP của Chính phủ. Đến nay, đã thành lập 9 cụm công nghiệp với tổng diện tích là 353 ha, trong đó 6 cụm đi vào hoạt động.

Văn hóa - xã hội phát triển toàn diện, được đẩy mạnh theo hướng phát triển đô thị “Đô thị di sản, văn hóa, sinh thái, cảnh quan, thân thiện với môi trường”. Phát huy vị thế trung tâm văn hóa đặc sắc của cả nước để phát triển du lịch, gắn bảo tồn và phát huy tốt giá trị di sản Cố đô Huế với xây dựng thành phố văn hóa, thành phố Festival đặc trưng của Việt Nam. Trung tâm y tế chuyên sâu với trụ cột là Bệnh viện Trung ương Huế, Trường Đại học Y Dược Huế, Bệnh viện Trường Đại học Y Dược Huế, Trung tâm kiểm nghiệm thuốc, mỹ phẩm, thực phẩm; các bệnh viện chuyên khoa đầu ngành và mạng lưới y tế từ tỉnh đến cơ sở được đầu tư đồng bộ, hiện đại, phục vụ tốt công tác khám, chữa bệnh cho nhân dân của khu vực miền Trung và cả nước. Trung tâm giáo dục - đào tạo được đầu tư theo hướng đa ngành, đa lĩnh vực, góp phần đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của khu vực miền Trung và cả nước. Ưu tiên các nguồn lực đầu tư xây dựng Trung tâm khoa học - công nghệ của khu vực.

Đời sống nhân dân được cải thiện, thực hiện có hiệu quả công tác an sinh xã hội, giải quyết việc làm, giảm nghèo bền vững; thường xuyên chú trọng công tác “Đền ơn đáp nghĩa”; quan tâm chăm lo đời sống vật chất và tinh thần cho các đối tượng chính sách, người có công với nước. Bảo đảm quốc phòng, an ninh; giữ vững ổn định chính trị xã hội, tạo môi trường thuận lợi để phát triển kinh tế - xã hội. Hệ thống chính trị được củng cố, kiện toàn; chất lượng và hiệu quả hoạt động của các tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận và các đoàn thể từng bước được nâng cao. Thế và lực của tỉnh ngày càng được nâng cao; trở thành vùng kinh tế động lực của miền Trung.

Thực hiện có hiệu quả đường lối và chính sách đối ngoại, tỉnh đã vận dụng linh hoạt, sáng tạo, có những đổi mới quan trọng về tư duy nhận thức cũng như xác định nội dung, cách thức, giải pháp thực hiện hoạt động đối ngoại phù hợp với các quan hệ đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong từng giai đoạn cách mạng và khả năng điều kiện mở rộng quan hệ đối ngoại của tỉnh để có lộ trình và bước đi cụ thể, phù hợp. Các hoạt động đối ngoại của tỉnh đã được triển khai đồng bộ và phát triển dưới những hình thức đa dạng, phong phú, đối ngoại thực sự là một trong ba trụ cột ngoại giao quan trọng, cùng với ngoại giao kinh tế, ngoại giao văn hóa nhằm góp phần vào việc giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để xây dựng phát triển đất nước và địa phương. Hoạt động đối ngoại của tỉnh đã góp phần quan trọng vào việc giới thiệu với bạn bè quốc tế về những thành tựu đạt được trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của địa phương, nét độc đáo của di sản văn hóa, nghệ thuật đặc trưng của Huế. Tỉnh đã chủ động thiết lập quan hệ hợp tác hữu nghị với nhiều địa phương của các nước trên thế giới. Công tác đối ngoại nhân dân góp phần mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác; hoạt động đối ngoại nhân dân không ngừng được đổi mới, ngày càng trở nên toàn diện và đi vào chiều sâu. Những mối quan hệ đối ngoại rộng mở này rất quan trọng, là nhịp cầu để tỉnh phát triển mạng lưới giao lưu hợp tác, là những kênh thông tin giữa địa phương với các nước trên thế giới trong việc tuyên truyền, vận động và tranh thủ sự ủng hộ của quốc tế đối với sự phát triển địa phương và cả nước.

Chính trị - xã hội ổn định, quốc phòng, an ninh được giữ vững, thế trận quốc phòng toàn dân được xây dựng, củng cố và gắn liền với thế trận an ninh nhân dân.

Những thành quả đạt được sau 90 năm qua cùng những thành tựu to lớn của quá trình đổi mới thời gian gần đây là nền tảng vững chắc để Đảng bộ, quân và dân tỉnh nhà quyết tâm xây dựng Thừa Thiên Huế trở thành thành phố trực thuộc Trung ương theo hướng đô thị “Di sản, văn hóa, sinh thái, cảnh quan, thân thiện với môi trường”.

II. ĐẢNG BỘ THỪA THIÊN HUẾ QUA CÁC KỲ ĐẠI HỘI

Đảng bộ Thừa Thiên Huế đã trải qua 15 kỳ đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh. Mỗi kỳ đại hội là một mốc son lịch sử, đánh dấu từng bước trưởng thành của Đảng bộ Thừa Thiên Huế.

1. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ Inhất

Đại hội tiến hành từ ngày 17 - 27/4/1949 tại chiến khu Dương Hòa (nay thuộc xã Dương Hòa, thị xã Hương Thủy), với sự tham dự của 82 đại biểu chính thức, 48 đại biểu dự khuyết, thay mặt cho hơn 2.000 đảng viên trong toàn tỉnh.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 17 đồng chí; trong đó có 15 ủy viên chính thức, 02 ủy viên dự khuyết, Ban Chấp hành đã bầu đồng chí Hoàng Anh làm Bí thư.

2. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ II

Đại hội tiến hành từ ngày 02 - 15/5/1950 tại Khe Rệ, huyện Hương Trà (nay là tThị xã Hương Trà), với sự tham dự của 272 đại biểu. 

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 17 ủy viên chính thức, 06 ủy viên dự khuyết; đồng chí Lê Minh được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy. Hội nghị Ban Chấp hành đã bầu 07 ủy viên Ban Thường vụ Tỉnh ủy và đồng chí Hồng Xích Tâm làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

3. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ III

Đại hội tiến hành từ ngày 20 - 24/7/1951, tại chiến khu Dương Hòa (nay thuộc xã Dương Hòa, thị xã Hương Thủy), với sự tham dự của 104 đại biểu chính thức, 22 đại biểu dự khuyết.

Đại hội đã bầu 16 đồng chí vào Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh, đồng chí Nguyễn Húng được Khu ủy chỉ định làm Bí thư Tỉnh ủy. Tại Hội nghị Tỉnh ủy mở rộng ngày 25/7/1951, đã bầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm các đồng chí: Húng, Tâm, Bốn, Lén, Đạt, Sung; đồng chí Tâm được phân công làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

4.  Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IV

Đại hội tiến hành từ ngày 21 - 26/4/1961 tại chòi Con Hiên, làng Ta pát, huyện A Lưới, với sự tham dự của 52 đại biểu.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 09 ủy viên chính thức, 02 ủy viên dự khuyết, do đồng chí Ngô Lén làm Bí thư, đồng chí Nguyễn Thanh làm Phó Bí thư, Ủy viên Thường vụ Nguyễn Vạn, Lê Cương, Hoàng Giang (Lê Diện).

5. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ V

Đại hội tiến hành từ ngày 25 - 29/7/1965, tại Khe Trái, huyện Hương Trà (nay là tThị xã Hương Trà), với sự tham dự của 87 đại biểu.

Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 13 ủy viên chính thức, do đồng chí Nguyễn Thanh (tức Tư Chúc) - Khu ủy viên làm Bí thư Tỉnh ủy; Ủy viên Thường vụ: Phan Ngô, Trần Mạnh Cát, Nguyễn Đình Thu, Trương Trọng Trân, Lê Sáu.

6. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VI (Đại hội đại biểu Đảng bộ Bình Trị Thiên lần thứ I)

Đại hội tiến hành 02 vòng: vòng 1 họp từ ngày 11 - 23/11/1976; vòng 2 họp từ ngày 19 - 22/5/1977 tại thành phố Huế.

Tham dự Đại hội (vòng 2) có gần 600 đại biểu thay mặt cho hơn 5 vạn đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội (vòng 2) đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ 39 đồng chí; gồm 37 ủy viên chính thức và 02 ủy viên dự khuyết.

Hội nghị Tỉnh ủy ngày 22/5/1977 đã bầu đồng chí Bùi San làm Bí thư Tỉnh ủy; Hội nghị Tỉnh ủy ngày 27/5/1977 đã bầu đồng chí Vũ Thắng làm Phó Bí thư Tỉnh ủy; Hội nghị Tỉnh ủy ngày 24/7/1977 đã bầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 11 ủy viên.

7. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VII (Đại hội đại biểu Đảng bộ Bình Trị Thiên lần thứ II)

Đại hội tiến hành họp từ ngày 06 - 11/01/1981 tại thành phố Huế, với sự tham dự của 346 đại biểu trong tổng số 5 vạn đảng viên trong toàn Đảng bộ Bình Trị Thiên. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 46 ủy viên chính thức, 02 ủy viên dự khuyết.

Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ nhất ngày 11/01/1981 đã bầu đồng chí Bùi San làm Bí thư Tỉnh ủy; Hội nghị Tỉnh ủy diễn ra từ ngày 23 - 27/01/1981 đã bầu Ban Thường vụ gồm 15 đồng chí, đồng chí Vũ Thắng và đồng chí Thái Bá Nhiệm được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

8. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VIII (Đại hội đại biểu Đảng bộ Bình Trị Thiên lần thứ III)

Đại hội tiến hành 02 vòng: vòng 1 họp từ ngày 12 - 19/01/1982; vòng 2 họp từ ngày 27 - 31/01/1983 tại thành phố Huế. Tham dự Đại hội (vòng 2) có 422 đại biểu chính thức thay mặt cho 51.443 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Tại Đại hội (vòng 2) đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 45 ủy viên chính thức, 02 ủy viên dự khuyết.

Hội nghị toàn thể Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh khóa III họp phiên đầu tiên ngày 31/01/1983 đã bầu đồng chí Vũ Thắng làm Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Thái Bá Nhiệm và đồng chí Nguyễn Văn Lương làm Phó Bí thư Tỉnh ủy. Hội nghị Tỉnh ủy ngày 22/2/1983 đã bầu Ban Thường vụ gồm 12 đồng chí.

9. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ IX (Đại hội đại biểu Đảng bộ Bình Trị Thiên lần thứ IV)

Đại hội tiến hành từ ngày 21 - 26/10/1986 tại thành phố Huế, với sự tham dự của 457 đại biểu, thay mặt cho hơn 6 vạn đảng viên của toàn đảng bộ. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 45 ủy viên chính thức, 14 ủy viên dự khuyết.

Ngày 27/10/1986, Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ nhất tiến hành bầu Ban Thường vụ gồm 15 đồng chí; đồng chí Vũ Thắng được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy, đồng chí Thái Bá Nhiệm và đồng chí Nguyễn Văn Lương được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

10. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ X

Đại hội tiến hành 02 vòng: vòng 1 họp từ ngày 24 - 27/4/1991; vòng 2 họp từ ngày 19 - 22/9/1991 tại thành phố Huế. Tham dự Đại hội (vòng 2) có 301 đại biểu trong tổng số 15.000 đại biểu toàn tỉnh Thừa Thiên. Đại hội (vòng 2) đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 40 ủy viên.

Ngày 23/9/1991, Tỉnh ủy họp phiên đầu tiên bầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 08 đồng chí; đồng chí Vũ Thắng được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí Nguyễn Khoa Điềm, Võ Nguyên Quảng được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

11. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI

Đại hội tiến hành từ ngày 07 - 10/5/1996 tại thành phố Huế, với sự tham dự của 348 đại biểu, đại diện cho hơn 16.000 đảng viên của 20 đảng bộ trực thuộc trong toàn Đảng bộ tỉnh. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 47 ủy viên.

Ngày 10/5/1996, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh họp phiên đầu tiên đã bầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 13 đồng chí; đồng chí Ngô Yên Thi được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí Hồ Xuân Mãn và Nguyễn Văn Mễ được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

12. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XII

Đại hội tiến hành từ ngày 01 - 05/01/2001 tại thành phố Huế, với sự tham dự của 379 đại biểu, đại diện cho hơn 2 vạn đảng viên của 20 đảng bộ trực thuộc của toàn Đảng bộ. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 47 ủy viên.

Ngày 04/01/2001, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh họp phiên đầu tiên đã bầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 12 đồng chí; đồng chí Hồ Xuân Mãn được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí Nguyễn Huy Ngọc và Nguyễn Văn Mễ được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

13. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIII

Đại hội tiến hành từ ngày 06 - 09/12/2005 tại thành phố Huế, với sự tham dự của 296 đại biểu thay mặt cho 26 nghìn đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh gồm 49 đồng chí.

Ngày 08/12/2005, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh họp phiên đầu tiên đã bầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 13 đồng chí; đồng chí Hồ Xuân Mãn được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí Nguyễn Huy Ngọc, Nguyễn Văn Mễ và Nguyễn Xuân Lý được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

14. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XIV

Đại hội tiến hành họp từ ngày 06 - 08/9/2010 tại thành phố Huế, với sự tham của 349 đại biểu thay mặt cho 35 nghìn đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 55 đồng chí.

Ngày 07/9/2010, Hội nghị Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh họp phiên đầu tiên đã bầu Ban Thường vụ Tỉnh ủy gồm 15 đồng chí; đồng chí Nguyễn Ngọc Thiện được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí Trần Thanh Bình và Nguyễn Văn Cao được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy. Hội nghị Tỉnh ủy ngày 29/8/2014 đã bầu đồng chí Lê Trường Lưu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy. Hội nghị Tỉnh ủy ngày 02/10/2015 đã bầu đồng chí Lê Trường Lưu làm Bí thư Tỉnh ủy.

15. Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XV

Đại hội tiến hành họp từ ngày 22 - 24/10/2015 tại thành phố Huế, với sự tham của 348 đại biểu thay mặt cho trên 46.000 đảng viên trong toàn Đảng bộ. Đại hội đã bầu Ban Chấp hành Đảng bộ gồm 53 đồng chí; đồng chí Lê Trường Lưu đã được bầu làm Bí thư Tỉnh ủy; các đồng chí Bùi Thanh Hà, Nguyễn Văn Cao được bầu làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.    

Ngày 04/6/2018, Hội nghị bất thường Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh đã bầu đồng chí Phan Ngọc Thọ làm Phó Bí thư Tỉnh ủy.

 

Phần thứ ba

PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG VẺ VANG,

TÍCH CỰC XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH,

QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC NGÀY CÀNG GIÀU ĐẸP

I. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Thực tiễn phong phú của cách mạng Việt Nam trong suốt 90 năm qua, Đảng ta đã tích lũy và đúc rút được nhiều bài học kinh nghiệm lớn:

1. Nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội - ngọn cờ vinh quang mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã trao lại cho thế hệ hôm nay và các thế hệ mai sau.  

 

Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở bảo đảm vững chắc cho độc lập dân tộc. Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa là hai nhiệm vụ chiến lược có quan hệ chặt chẽ với nhau.

2. Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.

 

Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Đảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó mật thiết với nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của Đảng.

3. Không ngừng củng cố, tăng cường đoàn kết.

 

Đoàn kết toàn Đảng, đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết quốc tế. Đó là truyền thống quý báu và là nguồn sức mạnh to lớn của cách mạng nước ta. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tổng kết: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết - Thành công, thành công, đại thành công”.

4. Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong nước với sức mạnh quốc tế.

 

Trong bất cứ hoàn cảnh nào cũng cần kiên định ý chí độc lập, tự chủ, nêu cao tinh thần hợp tác quốc tế, phát huy cao độ nội lực; đồng thời tranh thủ ngoại lực, kết hợp yếu tố truyền thống với yếu tố hiện đại.

5. Sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố hàng đầu quyết định thắng lợi của cách mạng Việt Nam.

 

Đảng không có lợi ích nào khác ngoài việc phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân. Đảng phải nắm vững, vận dụng sáng tạo, góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, không ngừng làm giàu trí tuệ, nâng cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức và năng lực tổ chức để đủ sức giải quyết các vấn đề do thực tiễn cách mạng đặt ra. Mọi đường lối, chủ trương của Đảng phải xuất phát từ thực tế, tôn trọng quy luật khách quan. Phải phòng và chống những nguy cơ lớn: sai lầm về đường lối, bệnh quan liêu và sự thoái hóa, biến chất của cán bộ, đảng viên.

II. PHÁT HUY TRUYỀN THỐNG VẺ VANG, TÍCH CỰC XÂY DỰNG ĐẢNG TRONG SẠCH, VỮNG MẠNH, QUÊ HƯƠNG, ĐẤT NƯỚC NGÀY CÀNG GIÀU ĐẸP

1. Những truyền thống vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta xây dựng nên nhiều truyền thống quý báu, thể hiện bản chất tốt đẹp:

- Đó là truyền thống trung thành vô hạn với lợi ích của dân tộc và giai cấp, kiên định mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh. Chỉ có đi theo con đường cách mạng mà Đảng ta và Bác Hồ đã lựa chọn thì cách mạng Việt Nam mới giành được thắng lợi trọn vẹn, đất nước ta mới thật sự được độc lập; dân tộc ta mới thật sự được tự do; nhân dân ta mới có cuộc sống ngày càng ấm no, hạnh phúc.

- Đó là truyền thống giữ vững độc lập, tự chủ về đường lối; nắm vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tham khảo kinh nghiệm của quốc tế để đề ra đường lối đúng và tổ chức thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ cách mạng. Trong mỗi giai đoạn, Đảng ta luôn thấm nhuần quan điểm chân lý là cụ thể, cách mạng là sáng tạo, xuất phát từ thực tiễn Việt Nam để xác định phương hướng, nhiệm vụ, phương pháp của cách mạng Việt Nam.

- Đó là truyền thống gắn bó máu thịt giữa Đảng và nhân dân, luôn luôn lấy việc phục vụ nhân dân làm lẽ sống và mục tiêu phấn đấu. Nhân dân ta đã nuôi dưỡng và bảo vệ Đảng từ những ngày còn trứng nước, hết lòng tin yêu Đảng, ủng hộ và ra sức phấn đấu thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng. Sức mạnh vô tận của nhân dân làm nên sức mạnh vô địch của Đảng; nguồn gốc sức mạnh của Đảng là ở sự gắn bó máu thịt với nhân dân, phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân.

- Đó là truyền thống đoàn kết thống nhất, có tổ chức và kỷ luật chặt chẽ trên cơ sở nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình, phê bình và tình thương yêu đồng chí. Trải qua những thử thách khắc nghiệt trong nhà tù đế quốc, trước lưỡi lê, họng súng của kẻ thù hay trên chiến trường lửa đạn, những người cộng sản Việt Nam đã nêu những tấm gương sáng ngời về tinh thần đoàn kết gắn bó, thương yêu nhau; về tình đồng chí, đồng đội. Chính tình nghĩa cộng sản đó đã gắn kết những người cách mạng Việt Nam thành một đội tiên phong gang thép được nhân dân tin yêu, bạn bè ngưỡng mộ, kẻ thù khiếp sợ; tạo thành sức mạnh để Đảng ta vượt qua mọi thử thách, hy sinh, giữ vững niềm tin và giương cao ngọn cờ lãnh đạo.

- Đó là truyền thống đoàn kết quốc tế thủy chung, trong sáng dựa trên những nguyên tắc và mục tiêu cao cả. Đây là cơ sở vững chắc để Đảng ta hình thành và thực hiện thành công đường lối đối ngoại đúng đắn qua các thời kỳ, phát huy đến đỉnh cao sự kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, đưa cách mạng Việt Nam liên tục phát triển.

Những truyền thống quý báu của Đảng ta là sự kế thừa và phát huy truyền thống tốt đẹp của dân tộc, của giai cấp công nhân Việt Nam và giai cấp công nhân quốc tế trên một tầm cao mới của thời đại; là sức mạnh bảo đảm vai trò lãnh đạo của Đảng; là kết quả của quá trình vun trồng, xây đắp bền bỉ, là sự hy sinh xương máu, phấn đấu không mệt mỏi của các thế hệ cán bộ, đảng viên.

Những truyền thống ấy của Đảng có ý nghĩa dân tộc và ý nghĩa quốc tế sâu sắc, thể hiện tinh thần cách mạng triệt để. Ngay từ khi mới ra đời, Đảng đã nắm bắt đúng xu thế phát triển của thời đại, gắn phong trào cách mạng Việt Nam với phong trào cách mạng thế giới, giải quyết đúng đắn vấn đề độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội. Trên con đường phát triển của cách mạng Việt Nam, Đảng ta đã không ngừng đưa ra những quyết sách phù hợp, đáp ứng yêu cầu lịch sử, vượt qua mọi khó khăn, thử thách, đưa nước nhà đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.

2. Tích cực xây dựng Đảng ta trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và đạo đức; xây dựng quê hương, đất nước ngày càng giàu đẹp, văn minh 

- Những thắng lợi vĩ đại trong 90 năm qua kể từ ngày có Đảng lãnh đạo là minh chứng sinh động nhất về năng lực lãnh đạo đúng đắn, sáng tạo của Đảng và sức mạnh to lớn của nhân dân ta. Đảng đã không ngừng tự đổi mới, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ cách mạng trước bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp. Đảng ta đã dành không ít thời gian và công sức cho công tác xây dựng Đảng, coi xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt, được đặt ra trong nhiều nghị quyết, chỉ thị của Đảng.

Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII đến nay, với quyết tâm chính trị cao, Ban Chấp hành Trung ương đã bám sát 06 nhiệm vụ trọng tâm của Đại hội, ban hành 04 nghị quyết và 01 quy định để lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ then chốt là xây dựng Đảng. Bộ Chính trị, Ban Bí thư đã ban hành 124 văn bản (nghị quyết, chỉ thị, kết luận, quy định, quy chế, kế hoạch, hướng dẫn...) về công tác xây dựng Đảng; trong đó kịp thời ban hành các nghị quyết để lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện những nhiệm vụ mới, quan trọng, như: thực hiện một số mô hình thí điểm về tổ chức bộ máy; việc sắp xếp các đơn vị hành chính cấp huyện và cấp xã; về kiểm soát quyền lực trong công tác cán bộ và chống chạy chức chạy quyền; trách nhiệm nêu gương của cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ chủ chốt các cấp; về chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng và chiến lược an ninh mạng quốc gia; về tăng cường bảo vệ nền tảng tư tưởng của Đảng, đấu tranh phản bác các quan điểm sai trái, thù địch trong tình hình mới... Việc Trung ương ban hành kịp thời, đồng bộ hệ thống văn bản trên hầu hết trên các lĩnh vực đã tạo cơ sở chính trị quan trọng để đẩy mạnh công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng trong tình hình mới.

Sau thời gian triển khai thực hiện, công tác xây dựng Đảng đã đạt được những chuyển biến tích cực và kinh nghiệm quan trọng. Bản lĩnh chính trị, trình độ, năng lực lãnh đạo của Đảng ngày càng được nâng lên; Đảng luôn vững vàng trước mọi khó khăn, thách thức trong bối cảnh trong nước, khu vực, thế giới có nhiều diễn biến nhanh chóng, phức tạp, khó lường và có những quyết sách phù hợp để chỉ đạo xử lý kịp thời, hiệu quả. Bản chất, lập trường giai cấp công nhân của Đảng được giữ vững. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh đạo, quản lý chủ chốt và người đứng đầu các cấp từng bước được nâng lên. Tinh thần tự phê bình và phê bình của cán bộ, đảng viên có tiến bộ; việc ngăn chặn, xử lý tiêu cực, sai phạm, thực hành tiết kiệm, chống tham nhũng, lãng phí có chuyển biến rõ nét. Từ đầu nhiệm kỳ Đại hội XII của Đảng đến nay, đã có trên 50 nghìn cán bộ, đảng viên bị xử lý kỷ luật, trong đó có hơn 70 cán bộ thuộc diện Trung ương quản lý. Bộ Chính trị, Ban Bí thư cũng đã kỷ luật 07 tổ chức đảng. Tinh thần, thái độ phục vụ nhân dân, ý thức trách nhiệm của cán bộ đối với công việc được giao được nâng lên, góp phần khắc phục một bước tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Niềm tin của cán bộ và các tầng lớp nhân dân đối với Đảng ngày càng được củng cố và nâng cao.

Tuy nhiên, công tác xây dựng Đảng vẫn còn nhiều việc phải làm, nhất là việc đấu tranh chống sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa”; tệ tham nhũng, lãng phí, quan liêu, xa dân... Các thế lực thù địch vẫn đang tìm mọi cách phá hoại sự nghiệp cách mạng của nhân dân ta; chúng ra sức xuyên tạc, vu cáo Đảng, Nhà nước ta, đánh thẳng vào hệ tư tưởng, Cương lĩnh, đường lối chính trị của Đảng, kích động, chia rẽ nội bộ Đảng, chia rẽ Đảng, Nhà nước với nhân dân, hòng làm tan rã Đảng ta, chế độ ta từ gốc, từ bên trong, hết sức thâm độc và nguy hiểm.

Trong tình hình ấy, chúng ta càng cần phải tập trung làm tốt hơn nữa công tác xây dựng Đảng. Phương hướng chung của việc xây dựng, chỉnh đốn Đảng hiện nay là phải tiếp tục phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ vững và tăng cường bản chất cách mạng và tính tiên phong của Đảng, xây dựng Đảng thực sự trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức, đạo đức, đổi mới phương thức lãnh đạo, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, bảo đảm cho Đảng đủ sức lãnh đạo sự nghiệp của đất nước không ngừng phát triển.

Trong điều kiện Đảng ta là Đảng cầm quyền, hoạt động trong môi trường phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, mở cửa hội nhập quốc tế; cán bộ, đảng viên giữ nhiều trọng trách, đối mặt với bao cám dỗ, với mặt trái của cơ chế thị trường, chúng ta càng phải chăm lo giữ vững bản chất cách mạng và tính tiên phong của Đảng. Nếu không nhận thức sâu sắc điều này, nếu cán bộ, đảng viên không tích cực và kiên trì rèn luyện thì rất dễ bị thoái hóa, biến chất. Vấn đề giữ vững bản chất của Đảng - là một Đảng Cộng sản, đảng cách mạng chân chính, hoạt động vì sự nghiệp của giai cấp công nhân, của dân tộc, vì lợi ích của nhân dân là vấn đề hết sức cơ bản và quan trọng.

Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XII) về tăng cường xây dựng, chỉnh đốn Đảng đã khẳng định: Phải nhìn thẳng vào sự thật, nói rõ sự thật, đánh giá đúng sự thật. Kết hợp giữa “xây”“chống”; “xây” là nhiệm vụ cơ bản, chiến lược, lâu dài; “chống” là nhiệm vụ quan trọng, cấp bách. Kiên quyết, kiên trì thực hiện với quyết tâm chính trị cao, nỗ lực lớn; phát huy sự chủ động, sáng tạo và sức mạnh tổng hợp của cả hệ thống chính trị, của nhân dân, trong đó cán bộ lãnh đạo, quản lý, trước hết là cán bộ cấp cao, cán bộ chủ chốt, người đứng đầu các cấp là nòng cốt; thực hiện quyết liệt, đồng bộ các giải pháp để đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi sự suy thoái, “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” có hiệu quả, nhất là những vụ việc gây bức xúc trong dư luận để củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng. Tăng cường sự lãnh đạo và đoàn kết, thống nhất trong Đảng, trước hết là Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, cấp ủy và ban thường vụ cấp ủy các cấp. Giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương của Đảng; đề cao pháp luật của Nhà nước. Chủ động phòng ngừa, tích cực đấu tranh làm thất bại âm mưu, thủ đoạn của các thế lực thù địch, phản động và các phần tử cơ hội, bất mãn chính trị. 

Tự hào với những thắng lợi đã đạt được, hướng tới tương lai tươi sáng, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn vững tay lái, tăng cường xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng hệ thống chính trị vững mạnh. Phát huy sức mạnh toàn dân tộc và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh toàn diện, đồng bộ công cuộc đổi mới; phát triển kinh tế nhanh, bền vững, phấn đấu sớm đưa nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân. Kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa. Giữ gìn hòa bình, ổn định, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế để phát triển đất nước; nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới.

*

*    *

90 năm gắn bó với mỗi bước đường phát triển của cách mạng Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Thừa Thiên Huế qua nhiều bước trưởng thành đã vun đắp nên truyền thống anh hùng và bản chất cách mạng của Đảng bộ và quê hương.

Kỷ niệm 90 năm Ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam và 90 năm quá trình xây dựng và trưởng thành của Đảng bộ Thừa Thiên Huế, toàn Đảng bộ, quân và dân Thừa Thiên Huế vô cùng tự hào vì đất nước có một Đảng Cộng sản kiên cường, trung thành với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lãnh đạo nhân dân ta đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác, làm nên những kỳ tích vĩ đại trong lịch sử dân tộc, đóng góp xứng đáng vào phong trào cộng sản và công nhân quốc tế, vì hòa bình và tiến bộ của nhân loại. Tự hào về Đảng quang vinh, về Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, về quá trình 90 năm xây dựng và trưởng thành của Đảng bộ tỉnh, mỗi cán bộ, đảng viên, mỗi tổ chức Đảng và mỗi người dân Thừa Thiên Huế tự soi rọi lại mình; càng thấy rõ hơn trách nhiệm của mình, nguyện đi theo Đảng, xây dựng Đảng ngày càng trong sạch, vững mạnh, tiếp tục lãnh đạo nhân dân ta đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế; phấn đấu xây dựng Thừa Thiên Huế thành đô thị “Di sản, văn hóa, sinh thái, cảnh quan, thân thiện với môi trường”; cùng cả nước thực hiện thắng lợi mục tiêu “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”, xây dựng một nước Việt Nam phồn vinh, hòa bình và thịnh vượng./.

 

BAN TUYÊN GIÁO TỈNH ỦY

 

Tin mới
Các tin khác
Xem tin theo ngày  
Thống kê truy cập
Truy cập tổng 1.464.601
Truy cập hiện tại 124